(PL)- Tòa kiến nghị Ngân hàng nhà nước thanh tra vào cuộc làm rõ để xử lý.Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM vừa sửa toàn bộ bản án sơ thẩm vụ tranh chấp hợp đồng thế chấp bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất giữa bà TTH với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chi nhánh Vĩnh Long.
Thế chấp ngắn hạn
Theo đơn kiện của bà H., tháng 8-2004, vì muốn con mình có vốn làm ăn, bà đã nhờ Công ty TNHH Miền Tây đứng ra vay giùm chi nhánh ngân hàng trên. Đổi lại, bà phải dùng quyền sử dụng đất để bảo lãnh hợp đồng vay 300 triệu đồng, thời hạn sáu tháng giữa Công ty Miền Tây với phía ngân hàng.
Bà H. đã giao bản chính giấy đỏ cho chi nhánh ngân hàng. Hết thời hạn bảo lãnh chính, bà gia hạn bảo lãnh thêm ba tháng. Sau chín tháng, ngân hàng đã thanh lý hợp đồng cho vay với Công ty Miền Tây nhưng vẫn không chịu trả giấy đỏ cho bà. Vì thế bà khởi kiện ra TAND tỉnh Vĩnh Long, yêu cầu phía ngân hàng phải trả lại giấy đỏ.
Ra tòa, phía ngân hàng cho biết Công ty Miền Tây vẫn trả lãi đủ nhưng chưa thanh toán vốn nên trong trường hợp này hợp đồng vay có thời hạn đã trở thành không thời hạn, tức là hợp đồng bảo lãnh của bà H. vẫn còn có hiệu lực. Tại phiên sơ thẩm, TAND tỉnh Vĩnh Long cũng đồng tình với quan điểm này và bác yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp bảo lãnh của bà H.
Thành thế chấp vĩnh viễn?
Bà H. kháng cáo, cho rằng Công ty Miền Tây đã thanh toán hết vốn vay cho phía ngân hàng. Chồng bà (người có quyền lợi liên quan) cũng kháng cáo, cho rằng hợp đồng bảo lãnh trên vô hiệu vì quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng nhưng bà H. lại đem đi bảo lãnh mà không được ông đồng ý.
Tại phiên phúc thẩm, phía ngân hàng và Công ty Miền Tây đều xác nhận công ty đã trả xong tiền vay. Dù vậy, phía ngân hàng vẫn từ chối trả giấy đỏ cho bà H., lập luận: Việc vay, cho vay giữa ngân hàng với Công ty Miền Tây là luân chuyển, hết hợp đồng này thì tiếp hợp đồng khác (từ năm 2004, phía ngân hàng đã cho công ty vay thêm 10 hợp đồng ngắn hạn). Vì thế, giấy tờ thế chấp bảo lãnh của bà H. phải được tiếp tục giữ lại (?!).
Trên thực tế, bà H. chỉ dùng giấy đỏ để bảo lãnh cho một hợp đồng vay sáu tháng vào tháng 8-2004.
Chủ tọa hỏi: “Khi tái ký hợp đồng cho vay mới, ngân hàng có thông báo cho bà H. biết không?”. Ngân hàng thừa nhận chỉ thông báo cho Công ty Miền Tây. Tòa hỏi tiếp: “Hợp đồng bảo lãnh ghi sẽ giao trả giấy tờ cho bên bảo lãnh khi đã thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng nhưng bên dưới lại thêm một điều khoản rất vô lý là hợp đồng bảo lãnh này dùng để bảo đảm cho các hợp đồng tín dụng được ký kết giữa Công ty Miền Tây và ngân hàng. Các anh dựa vào quy định nào mà đưa ra cách làm này? Nếu cứ thế, giấy tờ của bà H. sẽ bị các anh giữ muôn đời, không thể lấy ra ư?”.
Tòa khẳng định đây là cách làm trái pháp luật: “Chẳng lẽ khi nào Công ty Miền Tây còn vay tiền thì bà H. vẫn không thể lấy lại giấy tờ đất? Nếu Công ty Miền Tây rũ bỏ trách nhiệm, bỏ trốn thì bà H. sẽ níu áo ai đây để lấy lại giấy tờ?”
Tòa kiến nghị thanh tra!
Luật sư bảo vệ cho chồng bà H. cho rằng ngân hàng đã sai ngay từ đầu khi chấp nhận cho bà H. bảo lãnh bằng tài sản chung của vợ chồng.
Tòa phúc thẩm nhận định nguồn gốc đất thế chấp là từ cha mẹ chồng bà H. cho vợ chồng bà. Cấp sơ thẩm cho rằng vợ chồng họ sống chung thì người chồng đương nhiên phải biết việc bà H. thế chấp giấy đỏ, cũng như nhận định đó là tài sản riêng của bà H. là không có căn cứ. Hợp đồng bảo lãnh chỉ có mỗi mình bà H. đứng tên là không có giá trị. Đồng thời, khoản vay trên đã giải chấp xong nên hợp đồng bảo lãnh này cũng không còn giá trị nữa.
Tòa đã chấp nhận kháng cáo của vợ chồng bà H., sửa bản án sơ thẩm, hủy hợp đồng bảo lãnh, yêu cầu ngân hàng trả lại giấy đỏ cho vợ chồng bà. Ngoài ra, tòa kết luận ngân hàng không thể và không có quyền dùng hợp đồng bảo lãnh một khoản vay cụ thể của bà H. để rồi bảo lãnh cho Công ty Miền Tây vay tiền tỷ mà bà H. không hề hay biết, đồng ý. Trước việc làm trái pháp luật này, tòa thấy cần thiết phải kiến nghị Ngân hàng nhà nước Việt Nam cho thanh tra làm rõ để xử lý.
( theo Tuổi Trẻ Online)